Lễ Chol Chnam Thmay còn gọi là lễ Vào năm mới là một trong những di sản văn hóa độc đáo của đồng bào Khmer đã và đang được gìn giữ, bảo tồn, phát huy giá trị.
Lễ Chol Chnam Thmay là lễ Tết lớn nhất của người Khmer, diễn ra 3 ngày liên tiếp tính theo lịch cổ truyền của dân tộc Khmer tức là vào đầu tháng Chét của người Khmer. (Ảnh: Thế Anh/TTXVN)
Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long hiện có khoảng trên 1,3 triệu người Khmer sinh sống.
Trong quá trình lao động sản xuất, hội nhập và phát triển, đồng bào Khmer vẫn lưu giữ được nhiều nét văn hóa đặc sắc, góp phần xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc.
Lễ Chol Chnam Thmay còn gọi là lễ Vào năm mới là một trong những di sản văn hóa độc đáo của đồng bào Khmer đã và đang được gìn giữ, bảo tồn, phát huy giá trị.
Gửi gắm ước vọng
Theo Phó Giáo sư Ngô Văn Doanh, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Chol Chnam Thmay nghĩa là Lễ Vào năm mới, Tết cổ truyền hằng năm của người Khmer, thường diễn ra vào khoảng giữa tháng Tư Dương lịch.
Vào thời điểm này, trời nóng bức, thỉnh thoảng vẫn có một vài cơn mưa rào báo hiệu mùa mưa sắp tới. Vì thế, sau một mùa khô hạn, gặp mưa, cây bắt đầu đâm chồi nảy lộc.
Đối với đồng bào Khmer, Chol Chnam Thmay không chỉ là lễ Vào năm mới, mà sâu xa hơn chính là lễ mừng chấm dứt mùa nắng hạn để bước sang mùa mưa, chuẩn bị vụ mùa mới. Ngoài ra, như ở nhiều dân tộc vùng Đông Nam Á khác, lễ Vào năm mới của đồng bào Khmer còn là thời kỳ nghỉ ngơi, vui chơi giải trí khi mùa màng đã thu hoạch xong.
Thạc sỹ Lê Thúy An, Trường Đại học Trà Vinh phân tích, ngoài lễ hội lớn như Chol Chnam Thmay, đồng bào Khmer còn có các lễ hội lớn khác như Senl Dolta (tưởng nhớ công ơn các bậc sinh thành, tri ân tổ tiên), Ok Om Bok (lễ Cúng trăng)… Các lễ hội đều mang dấu ấn văn hóa sản xuất nông nghiệp và thể hiện rõ nét cách ứng xử với tự nhiên.
Người Khmer mừng năm mới vào giữa tháng “chét” (tức khoảng giữa tháng Tư Dương lịch). Tùy theo năm, Chol Chnam Thmay được tổ chức trong các ngày từ 13 đến 15-4 (đối với năm nhuận) hoặc 14 đến 16-4 với nhiều nghi thức như Lễ rước Đại lịch Maha Sangkran, lễ Dâng cơm, lễ Đắp núi cát, lễ Tắm tượng Phật, tắm sư sãi và lễ Cầu siêu.
Chol Chnam Thmay có ý nghĩa rất quan trọng đối với đồng bào Khmer vì đây vừa là ngày mở đầu năm mới, mở đầu thời vụ mới, cũng là ngày hạnh phúc tươi vui trong năm.
Trong ngày đầu năm mới, người Khmer chuẩn bị vật phẩm như, nhang, đèn, hoa quả mang đến chùa để làm lễ đón chào năm mới, làm lễ rước Đại lịch Maha Sangkran. Maha Sangkran được hiểu như vị hành khiển trong ngày Tết năm mới. Cứ mỗi năm, đồng bào Khmer lại đón một vị Maha Sangkran cai quản và trông coi mọi việc của năm đó.
Ngày thứ hai của lễ Chol Chnam Thmay là ngày Phật tử dâng cơm cho sư sãi vào buổi sáng và buổi trưa ở chùa. Buổi chiều, mọi người đến chùa làm lễ đắp núi cát để mong gặp nhiều điều may mắn, tốt lành trong năm mới và cầu mong có những cơn mưa cho mùa màng tốt tươi. Ngày nay, trong một số chùa của người Khmer ở Nam Bộ có thay hình thức đắp núi cát bằng đắp núi lúa.
Ngày thứ ba của lễ Chol Chnam Thmay sẽ diễn ra nghi lễ tắm tượng Phật. Đây là nghi lễ quan trọng và thiêng liêng đối với đồng bào Khmer. Nghi lễ tắm tượng Phật liên quan nhiều đến tâm thức ứng xử với nước của người Khmer, với ý nghĩa rửa sạch hết muộn phiền trong năm cũ để sang năm mới được thanh sạch, vui vẻ hơn. Nước thơm sau khi tắm Phật, đồng bào Khmer mang về nhà tắm cho người lớn tuổi để cầu chúc sức khỏe, bình an, mong một năm mới tất cả gặp nhiều may mắn, hạnh phúc.
Đề cập ý nghĩa của Tết Chol Chnam Thmay cũng như quan niệm linh thiêng về sự cần thiết của nguồn nước, thể hiện mong muốn một mùa mưa đến mang theo nguồn nước cho vạn vật vừa mang nét riêng, vừa có sự tương đồng của đồng bào các dân tộc.
Theo Thạc sỹ Lê Thúy An, nếu người Việt có câu “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” nhằm xếp mức độ quan trọng các yếu tố cần thiết cho nghề nông, người Khmer lại có câu “làm ruộng nhờ nước, đánh giặc nhờ cơm” để nói lên sự cần thiết của nước trong sản xuất nông nghiệp.
Bảo tồn, quảng bá nét đẹp văn hóa
Những năm qua, nhiều di sản văn hóa vật thể cũng như phi vật thể của đồng bào Khmer ở Nam Bộ luôn được các cấp, ngành quan tâm bảo tồn, gìn giữ và quảng bá thông qua nhiều hoạt động như, nghiên cứu, hội thảo, tổ chức lễ hội, liên hoan biểu diễn nghệ thuật, thể thao truyền thống với quy mô lớn.
Các địa phương ở Đồng bằng sông Cửu Long như Trà Vinh, Bạc Liêu, Sóc Trăng, An Giang – nơi có đông đồng bào Khmer sinh sống đều chú trọng bảo tồn, phát huy và quảng bá nhiều nét đẹp về phong tục, nghi lễ, ẩm thực, sản phẩm làng nghề, loại hình nghệ thuật truyền thống liên quan đến lễ hội lớn của đồng bào như Chol Chnam Thmay, Senl Dolta, Ok Om Bok…
Theo ông Dương Hoàng Sum, Giám đốc Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch Trà Vinh, tỉnh luôn coi bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của đồng bào các dân tộc sinh sống trên địa bàn, trong đó có đồng bào Khmer, là nền tảng to lớn để hình thành nên nhiều sản phẩm du lịch đặc sắc, chương trình du lịch chuyên đề di sản để giới thiệu tới du khách. Nói cách khác, di sản văn hóa các dân tộc; trong đó dân tộc Khmer đóng vai trò quan trọng trong kiến tạo, hình thành nên “trải nghiệm du lịch” độc đáo dành cho du khách đến với Trà Vinh.
Hiện nay, Làng Văn hóa-Du lịch Khmer tỉnh Trà Vinh (nằm trên địa bàn thành phố Trà Vinh và huyện Châu Thành) được quy hoạch là một khu phức hợp gồm nhiều hạng mục như: Khu văn hóa tâm linh, khu ẩm thực, khu nghỉ dưỡng, khu trưng bày quà lưu niệm, đặc sản Trà Vinh, nơi vui chơi, tổ chức văn nghệ, sự kiện…
Đây chính là nơi du khách có thể tìm hiểu nét đẹp độc đáo của nền văn hóa Khmer, nghi thức, phong tục diễn ra trong dịp Chol Chnam Thmay, Senl Dolta, Ok Om Bok, góp phần lan tỏa hình thức du lịch cộng đồng, bảo tồn và giới thiệu văn hóa Khmer đến với đông đảo du khách.
Có dịp trò chuyện với người Khmer đang sinh sống ở các địa phương thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, chúng tôi nhận thấy, người Khmer luôn tự hào, trân trọng và có ý thức giữ gìn nét đẹp văn hóa, phong tục tập quán mang đậm bản sắc của dân tộc mình.
Chị Đinh Thị Diệu ở ấp Bưng Thum, xã Long Phú, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng chia sẻ: “Chôl ch-năm” là câu nói quen thuộc của người Khmer giống như người Việt nói “ăn Tết” và được các thế hệ người Khmer duy trì, gìn giữ.
Vào mỗi dịp Tết Chol Chnam Thmay, gia đình Diệu lại sum vầy bên nhau. Mọi người cùng trang hoàng nhà cửa, dành thời gian đi chúc Tết ông bà, lên chùa làm lễ, cầu mong năm mới gặp nhiều may mắn. Để chuẩn bị cho ngày Tết, trước đó các gia đình sẽ làm nhiều loại bánh truyền thống như bánh Tét, bánh Nước tro, bánh Gừng, bánh Dừa… Với những người trẻ như Diệu, Tết Chol Chnam Thmay luôn im đậm trong tiềm thức và Diệu luôn tự hào giới thiệu tới bạn bè về nét văn hóa độc đáo của dân tộc mình.
Còn bà Néang Sóc Phi ở Khóm 6, thị trấn Tri Tôn, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang cho hay Tết Chol Chnam Thmay, gia đình bà thường đem lễ vật là hoa quả đến chùa, dâng cúng cơm cho các nhà sư và làm lễ Đắp núi cát với mong muốn mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Cũng trong dịp Tết, tại khu vực chùa còn có các trò chơi dân gian và biểu diễn văn nghệ như múa hát dù kê, rôbăm, thu hút đông đảo thế hệ người Khmer, du khách đến tham quan.
Năm nay, Tết Chol Chnam Thmay của đồng bào Khmer sẽ diễn ra từ ngày 14 đến 16-4 Dương lịch. Các ngành, đoàn thể ở các địa phương như Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu… đều có kế hoạch tổ chức nhiều hoạt động chúc mừng, chương trình biểu diễn nghệ thuật truyền thống, hoạt động vui chơi phù hợp phục vụ đồng bào Khmer đón Tết Chol Chnam Thmay đầm ấm, đồng thời bảo đảm thực hiện nghiêm biện pháp phòng dịch COVID-19, với tinh thần vui tươi, lành mạnh, đoàn kết, an toàn và tiết kiệm.
TH