Cách lựa chọn đông dược mùa đông
Mùa xuân tiết trời ẩm thấp là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các vi sinh vật gây bệnh, dễ gây nên các bệnh truyền nhiễm, vì vậy việc bồi bổ sức khỏe, nâng cao sức đề kháng của cơ thể càng hết sức cần thiết, có thể dùng một trong số những vị thuốc sau:
Hoàng kỳ: vị ngọt, tính hơi ấm, có công dụng bổ khí cố biểu, sinh huyết sinh cơ, lợi thủy, điều bổ phần khí của nhân thể từ biểu đến lý, từ trong ra ngoài. Có thể dùng độc vị mỗi ngày 15g thái vụn hãm hoặc sắc uống.
Hoàng tinh: vị ngọt, tính bình, có công dụng bổ tỳ khí, dưỡng vị âm, nhuận tâm phế, được coi là “diệu dược” để bổ trung ích khí, có thể dùng để thay thế cho sâm kỳ. Dùng 30g kết hợp với các vị thuốc khác như sơn tra 25g, hà thủ ô 15g, sắc uống.
Chú ý dùng thuốc dưỡng can
Mùa xuân can dương thượng cang, bệnh can dễ phát sinh và phát triển, vậy nên việc dùng thuốc dưỡng can là rất cần thiết, thường dùng là các thuốc dưỡng can minh mục, lý khí hòa huyết như sau:
Nhục thung dung: vị mặn, tính ấm, có công dụng bổ thận tráng dương, ích âm bổ huyết, nhuận tràng thông tiện, được sách Bản thảo sơ kinh coi là “tuyệt dược” để ích can thận, bổ tinh huyết. Có thể dùng độc vị, mỗi ngày 15-30g, sắc hoặc thái vụn hãm uống.
Kỷ tử: vị ngọt, tính bình, có công dụng tư can bổ thận, ích tinh minh mục, cố tinh kiện cốt, nhuận phế bổ hư. Có thể dùng 15-30g hãm uống thay trà.
Bạch thược: vị chua ngọt, tính hơi lạnh, có công dụng bổ huyết dưỡng can, liễm âm chỉ thống, được coi là một “yếu dược”
để bổ huyết dưỡng can. Thường dùng kết hợp bạch thược 15g, đương quy 9g, thục địa 15g, xuyên khung 6g, sắc hoặc thái vụn hãm uống thay trà hàng ngày.
Trọng dụng các thuốc phòng phong trừ thấp
Mùa xuân thời tiết rất dễ biến động, lúc mưa lúc tạnh, lúc lạnh lúc nóng, rất dễ bị thương phong cảm mạo, lại nhiều gió và sương mù khiến các bệnh viêm phế quản mạn tính, hen suyễn, viêm khớp dạng thấp hay phát tác và nặng thêm. Đông y cho rằng, phế là tạng ở cao nhất, non nớt, dễ bị ngoại tà hàn nhiệt xâm phạm; tỳ là tạng thích táo ghét thấp, chủ về vận hóa thủy thấp. Bởi vậy, ở những người phế khí, tỳ khí hư nhược rất dễ bị phát bệnh vào mùa xuân nên phải chú ý bổ phế, kiện tỳ để phòng phong trừ thấp. Có thể dùng một trong số vị thuốc sau:
Phòng phong: vị cay ngọt, tính hơi ấm, có công dụng phát biểu tán phong, trừ thấp chỉ thống, được sách Dược loại pháp tượng coi là diệu dược trừ phong tà. Có thể dùng dưới dạng sắc hoặc hãm uống thay trà với liều 10-12g mỗi ngày.
Bạch truật: vị đắng ngọt, tính ấm, có công dụng bổ tỳ ích khí, táo thấp lợi thủy, cố biểu chỉ hãn. Có thể dùng kết hợp với các vị thuốc khác như nhân sâm, cam thảo, bạch linh hoặc dùng độc vị với liều 12-15g mỗi ngày, sắc hoặc thái vụn hãm uống thay trà.
Lưu tâm thanh nhiệt sinh tân
Mùa xuân khí trời mát mẻ nhưng dễ bị phong hàn xâm nhập mà hóa nhiệt, lại thêm việc qua mùa đông thường dùng nhiều đồ ăn ấm nóng nên rất dễ tích nhiệt trong người mà làm hao tổn tân dịch. Thêm nữa, cuối xuân đầu hè là thời điểm tà khí phong ôn lưu hành cũng rất dễ làm nóng trong người, vì thế việc lựa chọn và sử dụng các vị thuốc bổ có công dụng thanh nhiệt sinh tân là rất cần thiết. Dưới đây là một số vị thuốc thường dùng:
Mạch môn: vị ngọt hơi đắng, tính hơi hàn, có công dụng dưỡng âm nhuận táo, sinh tân chỉ khát, thanh tâm trừ phiền. Có thể dùng kết hợp 9g với kim ngân hoa 9g, cát cánh 6g, sinh cam thảo, hãm uống thay trà hoặc dùng độc vị thái vụn, sao thơm, mỗi ngày lấy 10-12g hãm uống.
Thạch hộc: vị ngọt nhạt, tính lạnh, có công dụng dưỡng âm thanh nhiệt, ích vị sinh tân. Có thể dùng 15g kết hợp với thục địa 15g, hoài sơn 12g, sơn thù du 9g, kỷ tử 12g, cúc hoa 6g, sắc hoặc hãm uống hàng ngày.
Huyền sâm: vị ngọt mặn, tính lạnh, có công dụng thanh nhiệt tư âm, lương huyết giải độc, thích hợp với các trường hợp nhiệt bệnh háo khát, thương tân tiện bí, hầu họng sưng đau, ung thũng. Có thể dùng độc vị 12-15g thái vụn hãm hoặc sắc uống hàng ngày.
ThS. BS. Thanh Trà