Hà thủ ô – Thảo dược bổ can thận, dưỡng huyết
Hà thủ ô được chế biến thế nào?
Theo y học cổ truyền, củ hà thủ ô có vị đắng ngọt chát, tính hơi ôn. Vị đắng liên quan đến lạnh, vị chát liên quan đến táo sáp mới dẫn đến đại tiện đi nhiều lần, phân vừa táo vừa nát. Đó là tác dụng không mong muốn. Vì vậy, y học cổ truyền thường dùng hà thủ ô chế.
Củ hà thủ ô được rửa sạch, cạo bớt phần vỏ đen bên ngoài; ngâm với nước gạo 24 giờ. Sau đó thái miếng, loại bỏ lõi, chưng cách thủy với nước đậu đen (cứ 1kg hà thủ ô cần 100-300g đậu đen). Đêm chưng nấu, ngày đem ra phơi và tẩm lại nước đỗ đen còn trong nồi nấu (sái). Nếu chưng và sái được 9 lần thì tốt nhất. Cách làm trên giảm bớt độc tính, tăng sức bổ và đưa thuốc vào thận. Vị thuốc như miếng gan khô, vị ngọt hơi đắng chát.
Theo y học hiện đại, hà thủ ô sống chứa khoảng 7,68% tanin; 0,259% dẫn chất antraqinon tự do; 0,805% các antraglycozid. Sau khi chế biến như trên, dược liệu còn chứa 3,8% tanin; 0,113% các chất antraquinon tự do; 0,25% các antraglycozid và nhiều chất khác.
Tanin là chất có tác dụng săn se, cố sáp, có tác dụng cầm tiêu chảy; các antraglycozid là những chất có tác dụng nhuận tràng, thông tiện, thường dùng với những người bị táo bón kinh niên. Tuy nhiên, phải dùng đúng liều lượng để tránh tác dụng không mong muốn.
Hà thủ ô trắng chữa cảm sốt, cảm nắng, sốt rét, phụ nữ sau đẻ không có sữa uống để ra sữa.
Công dụng và cách dùng hà thủ ô
Thân leo và lá của cây hà thủ ô được gọi là dạ giao đằng. Dạ giao đằng có vị ngọt, tính bình. Có tác dụng dưỡng tâm, an thần, dưỡng huyết, hoạt lạc. Dùng trị chứng thần kinh suy nhược, thiếu máu, đau mỏi toàn thân.
Rễ củ gọi là hà thủ ô. Hà thủ ô vị đắng ngọt chát, tính hơi ôn. Vào các kinh can và thận. Tác dụng bổ can thận, dưỡng huyết bổ âm giải độc, nhuận tràng thông tiện. Trị can thận âm hư, huyết hư, đau đầu, hoa mắt chóng mặt, đau lưng mỏi gối, ù tai điếc tai, râu tóc bạc sớm, di tinh, huyết trắng, táo bón, hội chứng lỵ mạn tính, trĩ xuất huyết, sốt rét, lao hạch, bệnh mạch vành, tăng huyết áp, mỡ máu cao, xơ vữa động mạch. Liều dùng 12-60g. Để bổ huyết thì dùng hà thủ ô chế; nhuận tràng thông tiện thì dùng hà thủ ô sống. Liều dùng dạ giao đằng: 12-30g.
Kiêng kỵ: Người đàm thấp, tỳ hư, đại tiện lỏng không được dùng.
Bài thuốc có hà thủ ô
Bài 1: dạ giao đằng 12g, đan sâm 12g, trân châu mẫu 60g. Sắc uống ngày 1 thang. Trị chứng buồn bực, mất ngủ, mộng mị.
Bài 2: hà thủ ô chế, bắc sa sâm, quy bản, long cốt, bạch thược mỗi vị 12g. Sắc uống. Công dụng bổ huyết, an thần. Trị huyết hư, lo lắng, mất ngủ, âm hư, huyết khô, râu tóc bạc sớm.
Bài 3 – Thất bảo mỹ nhiệm đơn: hà thủ ô chế 20g, bạch linh 12g, ngưu tất 12g, đương quy 12g, thỏ ty tử 12g, phá cố chỉ 12g. Tất cả tán thành bột mịn, luyện với mật làm hoàn. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 12g, chiêu bằng nước muối nhạt. Công dụng ích thận, cố tinh. Trị gan thận yếu, lưng và đầu gối đau nhức, phụ nữ khí hư, nam giới di tinh.
Bài 4 – Thủ ô hợp tễ: hà thủ ô chế, sinh địa, huyền sâm, bạch thược, hạn liên thảo, sa uyển tật lê, hy thiêm thảo, tang ký sinh, ngưu tất mỗi vị 12g. Sắc uống. Dùng khi thiếu máu, tăng huyết áp, đầu váng, mắt hoa, chân tay tê cứng.
Bài 5: Trường hợp sốt rét lâu ngày hại đến chân âm, sốt li bì triền miên dùng 1 trong 2 bài:
Hà thủ ô sống 60g, sài hồ 12g, đậu đen 20g. Sắc với nước, đem phơi sương 1 đêm, sáng hôm sau hâm lại uống.
Hoặc Hà nhân ẩm: hà thủ ô chế 16g, đảng sâm 12g, đương quy 12g, trần bì 12g, gừng lùi 12g. Sắc uống.
Bài 6: hà thủ ô tươi 30-60g. Sắc uống. Tác dụng nhuận trường, thông tiện. Trị các chứng huyết hư, tân dịch khô nên đại tiện bí.
Hà thủ ô uống hằng ngày có thể chữa chứng tinh trùng yếu, tinh loãng.
Phối hợp với tang ký sinh, nữ trinh tử để chữa tăng áp huyết do xơ vữa mạch ở người già.
Ở Việt Nam, ngoài hà thủ ô đỏ, còn dùng rễ của cây hà thủ ô trắng (dây sữa bò, hà thủ ô nam). Dùng thay hà thủ ô đỏ làm thuốc bổ máu, nhưng chưa có tài liệu nghiên cứu chi tiết. Theo kinh nghiệm dân gian, vị thuốc này có tác dụng chữa cảm sốt, cảm nắng, sốt rét, phụ nữ sau đẻ không có sữa uống để ra sữa.
Khi thu hái hà thủ ô trắng, cần hết sức tránh nhầm với dây càng cua hoặc cây Mác chim, các cây này đều là cây có độc.
Bài thuốc chỉ mang tính chất tham khảo!
TS. Nguyễn Đức Quang