Nguồn gốc cái tên bánh xèo
Nhiều người sẽ thắc mắc bánh khoái Huế có hình dáng hơi giống bánh xèo miền Nam nhưng cách ăn và tên gọi lại hoàn toàn khác nhau.
Theo bà Mai Thị Trà, nghệ nhân ẩm thực Huế, người xưa dùng bếp củi để chế biến bánh khoái. Khi đổ bột vào chảo, khói bếp bốc lên nhiều, cay mắt nên người Huế gọi món ăn này là bánh khói. “Người Huế phát âm từ khói nghe như khoái, người ta đọc chệch rồi quen dần và có tên như bây giờ. Còn người miền Nam gọi là bánh xèo có lẽ vì khi đổ bột vào dầu nóng sẽ có tiếng xèo rất lớn”, bà Trà cho hay.
Thông thường, khách ngồi vào bàn, chủ quán mới bắc khuôn lên bếp để đổ bánh. Khuôn làm bằng gang, hình tròn, có tay cầm. Khi dầu sôi, bà đổ một lớp bột mỏng vào khuôn. Bánh vừa chín vàng thì thêm tôm, chả, thịt, trứng, giá vào một bên, lật phần bánh còn lại úp lên thành hình bán nguyệt.
Nhiều người lại cho rằng chữ “khoái” có nghĩa là “khoái khẩu” vì thức quà vặt này ngon, thực khách hễ ăn hết một cái lại muốn gọi thêm cái nữa. Bánh khoái ăn cùng với nước lèo và rau sống. Bánh được cắt làm đôi, khách gắp một nửa bánh, cho vào bát con ăn cùng rau sống và nước lèo chứ không cuốn bánh tráng. Đây cũng là điểm khác biệt trong cách ăn giữa bánh khoái và bánh xèo.
Nước lèo làm từ bột, thịt nạc, gan heo băm nhỏ, vừng và lạc rang giã nhỏ, tương đậu nành… tất cả trộn lại rồi nấu chín đến khi đặc sánh, có màu vàng nâu, thơm và béo. Rau sống thường gồm xà lách, cải con, chuối chát, ớt đỏ, rau thơm và trái vả xắt lát mỏng.
Thanh Lam-t/h